Search

Vie

Eng

Các chương trình phát triển cộng đồng và người khuyết tật

vi Thứ tư, 02 tháng 05 2012 09:33

Khuyết tật vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sự đói nghèo

Xóa bỏ sự đói nghèo và mục tiêu thiên niên kỷ sẽ không thể nào thực hiện được nếu không cân nhắc đến nhu cầu và quyền lợi của những người khuyết tật.

alt 

Theo khảo sát của Tổng Cục Thống kê năm 2006, người khuyết tật chiếm 15.3% dân số, tương đương 13 triệu người, trong đó có 1.2-1.5 triệu thanh niên khuyết tật (UNICEF, 2009)

Khảo sát do Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội thực hiện năm 2007 cho thấy phần lớn các gia đình có con khuyết tật đều rất khó khăn trong cuộc sống: 32.5% sống dưới mức nghèo (với tổng thu nhập trong một ngày không tới 20,000 đồng); chỉ có 58% có mức sống trung bình; 65% sống trong những căn nhà tạm bợ. 70% thanh niên khuyết tật trong độ tuổi lao động, nhưng chỉ 30% có thu nhập ổn định;  41% thất học; 19.5% có trình  độ văn hóa cấp 2 hoặc cấp 3; chỉ 6.5% tốt nghiệp các trường dạy nghề, và dưới 0.1% đang học hoặc đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng. 87.20% thanh niên khuyết tật sống ở khu vực nông thôn, và 50.35% gia đình nhận hưởng chế độ hỗ trợ về y tế, trong đó 38.17% được khám sức khỏe và khám chữa bệnh miễn phí và 5.43% được phát thẻ bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, chỉ có 4.62% gia đình nhận được hỗ trợ để phục hồi chức năng và các trang thiết bị hỗ trợ cho người khuyết tật. Con số này rất ít trong khi phục hồi chức năng là ưu tiên hàng đầu của thanh niên khuyết tật để họ có thể học tập, làm việc và tham gia vào các hoạt động của cộng đồng.

Ngân hàng Thế giới xếp người khuyết tật là 1 trong 5 nhóm người nghèo nhất trong những nhóm nghèo trên thế giới. Sự khiếm khuyết và phân biệt đối xử đã gây khó khăn cho người khuyết tật khi họ muốn tiếp cận với giáo dục và việc làm, và điều này dẫn đến việc họ bị loại trừ ra khỏi những hoạt động kinh tế và xã hội. Người khuyết tật nghèo bị vướng trong cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo và khuyết tật, cái này vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của cái kia. Sự nghèo khó làm con người dễ tổn thương và trở thành nguời khuyết tật, và sự khuyết tật lại làm cho những gia đình đã nghèo lại nghèo thêm.

Bị loại trừ và dễ tổn thương

Người khuyết tật bị phân biệt đối xử ngay từ lúc mới sinh hoặc từ lúc trở thành khuyết tật. Sinh ra một đứa con khuyết tật bị xem là thảm họa của gia đình. Một đứa trẻ khuyết tật được xem là không có khả năng tự lo liệu cho bản thân và cần được quan tâm nhiều hơn, vì thế gia đình có con khuyết tật thường rơi vào tình trạng nghèo đói triền miên. Đứa trẻ khuyết tật có thể được gia đình chăm sóc và bảo vệ, nhưng đồng thời cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt hằng ngày của gia đình và cộng đồng, và thường thì chẳng ai để ý đến suy nghĩ hay lắng nghe ý kiến của đứa trẻ.

Người khuyết tật đôi khi bị kỳ thị nhiều hơn do những yếu tố thuộc về văn hóa, tôn giáo hoặc  mê tín. Ở vài địa phương, người khuyết tật bị xem là sự trừng phạt của thượng đế, và bị xem như những “công dân hạng 2” không phù hợp với những hoạt động xã hội chính thống. Nhiều gia đình có con khuyết tật vừa sợ vừa xấu hỗ nên thường dấu con trong nhà và không tạo bất cứ điều kiện nào để đứa bé có thể phát triển. Vì thế nên nhiều người khuyết tật phát triển “hội chứng phụ thuộc”, mặc cảm tự ti, cam chịu số phận, và luôn có cảm giác bị cô lập và loại trừ khỏi cộng đồng mà họ đang sống. 

Những nhu cầu cơ bản: thức ăn

Ở những nơi khó khăn và khan hiếm nguồn sống, đứa trẻ khuyết tật sẽ không nhận được sự chia sẻ ngang bằng như những thành viên khác trong gia đình về thức ăn, quần áo, nước sạch, đất đai,…, vì đứa trẻ khuyết tật không được xem là người có khả năng chăm lo cho gia đình trong tương lai. Điều này làm cho tình trạng sức khỏe của đứa trẻ khuyết tật trở nên tệ hại hơn.

Chăm sóc sức khỏe

Giống như những người khác, người khuyết tật cũng có nhu cầu chăm sóc sức khỏe  nhưng nhu cầu này thường bị từ chối vì những trung tâm ý tế thường hoặc ở quá xa hoặc không tiếp cận được, hoặc các nhân viên y tế tìm cách từ chối họ bằng nhiều lý do. Phụ nữ khuyết tật thường cho biết họ bị từ chối hoặc la mắng khi tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản (“Đã khuyết tật mà còn bày đặt có con làm gì!!!”). Các thông tin về y tế thường ở các dạng khó tiếp cận vì người khuyết tật không được xem là đối tượng của những chương trình giáo dục về sức khỏe. Các trung tâm vật lý trị liệu cũng thường không tiếp cận được với người đi xe lăn, hoặc giá dịch vụ quá đắt so với thu nhập của người khuyết tật. Số liệu của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội năm 2007 cho thấy chỉ có 5.43% người khuyết tật được phát thẻ bảo hiểm y tế và chỉ có 4.62% gia đình nhận được hỗ trợ để phục hồi chức năng và các trang thiết bị hỗ trợ cho người khuyết tật. 

alt 

Giáo dục

Mục tiêu giáo dục sẽ không đạt được nếu không tính đến trẻ khuyết tật. Chỉ có  24.25% trẻ khuyết tật được đến trường.  Cha mẹ cho rằng đầu tư việc học cho đứa trẻ  khuyết tật là không hiệu quả. Hoặc đôi khi cha mẹ muốn gửi con đến trường nhưng không có đủ phương tiện giao thông, nhà trường không tiếp cận. Những trẻ khuyết tật được đi học thì thường nhận cách đối xừ không công bằng vì trường học thiếu trang bị những dụng cụ hỗ trợ cho trẻ khuyết tật, hoặc thầy cô có kiến thức về khuyết tật, không có kỹ năng làm việc với trẻ khuyết tật nên không mong đợi nhiều ở trẻ khuyết tật, vì thế họ thường không hỗ trợ hoặc đặt ra yêu cầu để trẻ khuyết tật có cơ hội tham gia như những trẻ khác. Ngay từ lúc ban đầu trẻ khuyết tật đã mất đi những cơ hội mà người không khuyết tật khác xem như là hiển nhiên với họ.

Việc làm và thu nhập

Từ lúc nhỏ họ đã không có cơ hội đi học, không được tham gia các hoạt động xã hội nên khi lớn lên người khuyết tật gặp nhiều khó khăn khi tìm việc bởi thiếu kinh nghiệm sống và rất thiếu tự tin.

alt

Có được việc làm và thu nhập là cơ hội duy nhất giúp người khuyết tật thoát khỏi cuộc sống bị cô lập hoặc thiếu tiếp xúc xã hội, nhưng vì khó tiếp cận được với cơ hội việc làm nên nhiều người khuyết tật phải kiếm sống bằng cách ăn xin hoặc bán dạo trên đường phố. Nếu có việc làm họ cũng chỉ nhận được lương rất thấp và ít có cơ hội thăng tiến. Rõ ràng, nếu người khuyết tật cứ lủi thủi trong nhà mình, thì bạn bè cùng tuổi hoặc mọi người sẽ không biết đến sự tồn tại của người khuyết tật, nói gì đến việc biết đến giá trị hoặc khả năng của họ để có thể nhìn nhận họ như những thành viên ngang bằng trong xã hội.

Như vậy, bị hạn chế trong giáo dục và đào tạo nghề làm cho người khuyết tật thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng, nên rất thiếu tự tin. Điều này cản trở họ tìm được công việc tử tế hoặc có vị trí tốt trong xã hội. Việc thiếu cơ hội giáo dục và tuyển dụng cũng cản trở người khuyết tật có được kinh nghiệm, kỹ năng sống và nguồn lực để giải quyết các vấn đề của họ khi cần. Việc họ bất lực hoặc lúng túng khi cần giải quyết vấn đề lại càng củng cố niềm tin của xã hội là người khuyết tật bất tài và vô dụng.

Công trình công cộng thiếu tiếp cận

Ngoài những rào cản về thái độ và xã hội, người khuyết tật còn phải đối mặt với những cản trở do xây dựng hoặc thiết kế. Những rào cản này làm người khuyết tật mất đi cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và hạn chế sự tham gia của họ. Hầu hết đường phố, các tòa nhà công cộng, xe buýt,… đều “quên” tính đến người khuyết tật mặc dù Việt Nam đã có bộ Qui chuẩn Xây dựng Tiếp cận từ năm 2002. Những người khiếm thị hoặc khiếm thính cũng bị bỏ quên khi những thông báo ở nơi công cộng không hề tính đến những loại hình phù hợp với họ như chữ nổi, ngôn ngữ ký hiệu, hoặc dùng loại ngôn ngữ đơn giản dễ hiểu.

Như vậy, việc “quên” người khuyết tật trong những chương trình xã hội đã làm cho người khuyết tật rơi mãi vào cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo và bệnh tật. Khi gia đình có 1 thành viên trở thành khuyết tật thì một gia đình đã nghèo sẽ trở nên cạn kiệt hơn. Vì vậy, chỉ có xóa bỏ các loại rào cản để tạo cơ hội cho người khuyết tật hòa nhập và phát triển thì mới có thể giảm được sự đói nghèo và thực hiện được mục tiêu thiên niên kỷ.

Người khuyết tật và các chương trình phát triển xã hội

Các vấn đề của người khuyết tật ngày càng được đề cập nhiều hơn trong các chương trình phát triển xã hội, vì vậy vai trò của người khuyết tật cần được hiểu đúng hơn và các vấn đề của người khuyết tật cũng cần được quan tâm như là vấn đề quan trọng trong các nỗ lực chung nhằm phát triển xã hội.

Phát triển xã hội nghĩa là giảm sự phân biệt đối xử và đưa những người khuyết tật vào các chương trình xã hội để họ có thể được đi học, có việc làm, gây dựng gia đình, sinh con cái, tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, trở thành thành viên của các tổ chức xã hội, tiếp cận internet, v.v… giống như những công dân khác. Người khuyết tật và gia đình họ cần và xứng đáng thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo và bệnh tật mà họ phải đối mặt hằng ngày để sống sót.

Nhiều người cho rằng người khuyết tật đã được bao gồm trong các chương trình xã hội vì họ thuộc nhóm “thiệt thòi”. Tuy nhiên, các chuyên gia phát triển cộng đồng cho rằng đơn giản đưa người khuyết tật vào nhóm thiệt thòi sẽ là thiếu sót, vì thực tế đã cho thấy là trong những chương trình này, người khuyết tật vẫn tiếp tục bị loại trừ vì họ là nhóm thiếu khả năng ứng phó và giao tiếp, ít dám tham gia hay lên tiếng nên thường trở nên vô hình và bị bỏ sót.

Việc thực thi luật và các chính sách bị hạn chế

Mặc dù có được khung pháp lý tiến bộ và cam kết mạnh mẽ của chính phủ, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa các chính sách và thực tế thực hiện. Theo phân tích của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội trong Kế hoạch Hành động Quốc gia 2006-2010, nguyên nhân của tình trạng này là:

  • Thông tin và tuyên truyền các chính sách của nhà nước về người khuyết tật chưa được thực hiện rộng rãi; vì vậy nhận thức của các tổ chức và cá nhân về trách nhiệm đối với người khuyết tật còn hạn chế. 

  • Ngân sách nhà nước dành hỗ trợ cho người khuyết tật còn hạn chế và không có cơ chế tài chính phân bổ ngân quỹ cho các chương trình / hoạt động của người khuyết tật.

  • Không có cơ chế giám sát việc thực thi pháp luật, và hướng dẫn các tỉnh thành thực thi các luật và chính sách hỗ trợ người khuyết tật.

  • Không có sự hợp tác giữa các cơ quan và tổ chức trong việc thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe và tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội.

  • Các tỉnh thành không phân công đủ nhân sự có kiến thức tốt về mô hình xã hội để giám sát việc thực thi các chính sách và đề xuất kiến nghị cần thiết để hỗ trợ người khuyết tật tại địa phương mình.

Do đó, phần lớn các dự án xã hội dành cho người khuyêt tật đều hạn chế trong mô hình từ thiện và y tế.

NHỮNG VẦN ĐỀ CỤ THỂ CẦN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT

Nhu cầu của người khuyết tật và gia đình họ cần được xác định và đáp ứng bằng những phương pháp phù hợp với sự mong đợi, khả năng, và mức độ dễ tổn thương của họ.  Điều này đòi hỏi phải đưa các vấn đề của người khuyết tật vào cả 2 chương trình: chương trình phát triển chung của quốc gia và những chương trình cụ thể.

Bao gồm người khuyết tật trong những chương trình phát triển xã hội

Những chương trình phát triển phải đảm bảo rằng người khuyết tật có cơ hội tiếp cận với những dịch vụ xã hội giống như những thành viên khác của xã hội. Những vấn đề của họ phải được đưa vào tất cả những chính sách, lĩnh vực thí dụ như bình đẳng giới, lao động, công trình công cộng, tái định cư, v.v…

Những chương trình giành riêng cho người khuyết tật

Vì những đặc điểm đặc thù liên quan đến khó khăn của họ, những nhu cầu cụ thể của người khuyết tật cũng cần được đáp ứng thông qua những chương trình giành riêng cho họ. Thí dụ như những chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp để họ có thể tiếp nhận và phối hợp tốt với nhân viên là người khuyết tật; những chương trình tập huấn cho giáo viên để họ có thể hỗ trợ tốt nhất trẻ khuyết tật khi có học hòa nhập trong lớp ho phụ trách;…. 

Thực hiện và giám sát việc thi hành các chính sách hỗ trợ người khuyết tật

Việt Nam đã thông qua Luật Người Khuyết Tật dựa theo Công Ước Quyền của Người Khuyết Tật. Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.

Luật Người Khuyết Tật nêu rõ phần lớn các lĩnh vực liên quan đến đời sống của người khuyết tật ở Việt Nam. Luật Người Khuyết Tật đảm bảo quyền lợi công bằng cho người khuyết tật khi sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo nghề, tuyển dụng, nhà ở và nhà xã hội, dịch vụ vận chuyển bằng xe buýt và tàu hỏa, công nghệ thông tin và truyền thông, các hoạt động văn hóa và giải trí. Luật Người Khuyết Tật, lần đầu tiên, ngăn chặn sự phân biệt đối xử đối với người khuyết tật trong trong quyền đi học. Luật Người Khuyết Tật cũng thiết lập các quyền ưu tiên cho giáo dục hòa nhập, và bắt buộc các trường học, trường dạy nghề phải tạo điều kiện thích hợp cho sinh viên khuyết tật. Luật này đảm bảo cơ hội đến trường cho người khiếm thính, khiếm thị, khiếm thanh, và các người khuyết tật khác “bằng cách sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu, chữ nổi đã chuẩn hóa ở cấp quốc gia, hoặc sử dụng các thiết bị, công cụ, tài liệu giáo dục dành cho người khuyết tật.”

Luật Người Khuyết Tật cũng đảm bảo người khuyết tật quyền tiếp cận và tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao và giải trí, và công nhận sự cần thiết cung cấp dịch vụ phục hồi dựa vào cộng đồng cho người khuyết tật. Luật này cung cấp một số hỗ trợ tài chính cho gia đình người đa khuyết tật nặng, tuy nhiên không đề cập đến những người khuyết tật các dạng khác. Luật này gây quỹ hỗ trợ người khuyết tật, lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội.  Dĩ nhiên, điều quan trọng hơn hết là Luật Người Khuyết Tật bắt buộc chính phủ Việt Nam đảm bảo dành một khoảng ngân sách hàng năm đủ để thực thi các chính sách dành cho người khuyết tật .

Luật Người Khuyết tật có bước tiến quan trong trong việc cung cấp khung pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền của người khuyết tật theo yêu cầu cùa Công Ước Quyền Người Khuyết Tật.

Tăng cường cơ hội được giáo dục, đào tạo nghề và tuyển dụng

Việt Nam có hệ thống đào tạo nghề và hỗ trợ tuyển dụng tương đối toàn diện ở cấp quốc gia, tỉnh thành và ngay cả cấp quận huyện. Theo luật, người khuyết tật được đào tạo nghề và sắp xếp công việc miển phí; tuy nhiên, ngân sách của các tỉnh thành cho các dịch vụ này rất hạn chế. Việt Nam cũng áp dụng chỉ tiêu tuyển dụng, yêu cầu người sử dụng lao động tuyển ít nhất 3% nhân viên là người khuyết tật (2% đối với các ngành công nghiệp nặng và nguy hiểm). Người sử dụng lao động không tuân thủ quy định này sẽ bị phạt, tiền phạt này sẽ được sử dụng để hỗ trợ đào tạo nghề và tuyển dụng thanh niên khuyết tật.

Thay đổi thái độ và nhận thức về Người Khuyết Tật

Thái độ được xem như rào cản chính đối với việc hòa nhập xã hội của NKT. Thái độ có thể khác nhau nhưng nổi trội vẫn là “chăm sóc và bảo vệ”. Người khuyết tật không được xem là có khả năng tự chăm sóc bản thân, học tập, hoặc làm việc.  Xã hội nói chung vẫn chưa thật sự hiểu rõ khái niệm hòa nhập. Các chứng cứ hiện tại thừa nhận là ngay cả khi sẵn sàng đón nhận nhiều người khuyết tật hơn trong giáo dục, việc làm hoặc trong các tổ chức, vẫn còn khoảng cách rất lớn trong kiến thức và cách thức tạo điều kiện hòa nhập.

Đối vối người khuyết tật, với những năm tháng dài bị bỏ quên, phân biệt đối xử, và không có kỳ vọng vào khả năng của họ, đã tước mất của họ cơ hội được phát triển toàn diện. Vì vậy, mặc dù đã chính sách mới dành cho người khuyết tật đã được thông qua và khuyến khích họ tham gia, người khuyết tật vẫn thụ động nhận các chương trình từ thiện từ các nhà hảo tâm hiểu biết ít về mong muốn thực sự và nhu cầu của người khuyết tật.

Hỗ trợ các hoạt động của tổ chức của người khuyết tật

Hoạt động của người khuyết tật tại Việt Nam còn rất yếu và chưa hình thành được phong trào. Nhận thức chính trị của người khuyết tật nhìn chung còn thấp. Không có nhiều người khuyết tật hiểu rõ về quyền hạn và trách nhiệm của mình, hoặc dường như không nhận thức được họ là một phần lực lượng chính trị có tiềm năng, hoặc rằng các tổ chức của người khuyết tật có thể đóng góp vào quá trình phát triển của xã hội. Ngay cả những người khuyết tật có trình độ học vấn cao cũng ít hiểu biết về các khái niệm trong Công Ước. Các tổ chức của người khuyết tật còn non yếu, thiếu chiến lược, phương pháp điều hành, kế hoach tài chính và quản lý, kỹ năng tư vấn kém hiệu quả, và không có được sự phối hợp chặc chẽ giữa các tổ chức. Nhiều tổ chức thiếu kỹ năng lãnh đạo và khuyến khích sự tham gia hiệu quả của thành viên. Do đó, rất ít tổ chức mở rộng được hoạt động và tham gia vận động và biện hộ cho người khuyết tật. Nếu các tổ chức này muốn đại diện của người khuyết tật để tham gia vào việc thực hiện tốt các chính sách về người khuyết tật của nhà nước, và trước hết họ phải trở thành tổ chức hoạt động hiệu quả. Họ cũng rất cần được trang bị các kỹ năng phối hợp hoạt động, giao tiếp, và liên kết để tạo được những chuyển biến tích cực đối với người khuyết tật trong khắp cả nước.

**********

Nói tóm lại, không nên giải quyết vấn đề nghèo đói của người khuyết tật thông qua các chương trình từ thiện như cung cấp thức ăn, nhà ở, quần áo và tiền bạc. Người khuyết tật hằng ngày phải đối mặt với các dạng rào cản khi muốn tham gia vao các hoạt động kinh tế, xã hội cũng như gặp cản trở khi cần tiếp cận với những nguồn lực đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ và gia đình như giáo dục, dạy nghề, phát triển kỹ năng,… Điều này làm sâu thêm sự thiệt thòi và mức độ nghèo khó của họ. Sự nghèo khó thường là nguyên nhân của sự khuyết tật, và khuyết tật lại làm họ nghèo khó thêm, như một vòng lẩn quẩn ít lối ra. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu thiên niên kỷ, phải bao gồm người khuyết tật một cách cụ thể trong các chương trình phát triển xã hội cũng như thực hiện những chương trình riêng phù hợp với nhu cầu cụ thể của họ để có thể xây dựng được một xã hội không rào cản: xã hội tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người (Chủ đề của ngày Khuyết tật Thế giới 3-12-2011)

TP. Hồ Chí Minh, 10-10-2011

Võ T. Hoàng Yến

TT. Khuyết tật và Phát triển

www.drdrvietnam.com

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Báo cáo củ UNICEF, 2009

  2. Báo cáo của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hội nghị tổng kết các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật giao đoạn 2006-2010. BLĐTBXH, 2010

  3. Người Khuyết tật ở Việt Nam Kết quả điều tra xã hội học tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, 2009

  4. Nội dung trao đổi trong các hội thảo, diễn đàn do DRD thực hiện, www.drdvietnam.com

 


Từ khóa: Bài viết, DRD, Hoàng Yến, Người khuyết tật, Phát triển cộng đồng, Phụ nữ khuyết tật, Thông tin

Tập tin đính kèm Yen. Disability and community development.doc

Tin liên quan

Go to top