Search

Vie

Eng

Chống bạo hành: không thể thụ động ngồi chờ nạn nhân lên tiếng!

vi Thứ hai, 30 tháng 04 2007 17:00

Câu chuyện của em H.N (Làm sao thoát khỏi những đòn roi?) làm tôi nhớ lại một mẫu báo ngắn tôi đọc cách đây không lâu. Mẫu báo ngắn “lạnh lùng” mô tả một vụ án mẹ và con gái giết chết bố và anh trai, vì hai người này thường xuyên đánh đập họ để vòi tiền đi uống rượu.

 

Tôi cho rằng mẫu tin này lạnh lùng vì nó đã bỏ sót những bi kịch lâu dài mà hai người phụ nữ đó đã phải chịu đựng, vì chẳng dễ dàng gì mà hai người phụ nữ lại có thể sát hại những người ruột thịt. Thực tế, ở Việt Nam, còn biết bao bi kịch như thế mà chưa có được con số thống kê hoặc do chưa có nghiên cứu sâu về vấn đề này, hoặc do gia đình nạn nhân cam chịu vì “chuyện đã lỡ hết rồi mà bây giờ nói ra thì xấu hổ gia đình dòng họ”!

Có lẽ, chúng ta không nên chỉ “cảm thông” mà phải thật sự thấu hiểu nỗi cô đơn và sợ hãi tột cùng mà những người phụ nữ, những em nhỏ phải trải qua trong những gia đình thường xuyên có nạn bạo hành. Lý lẽ chống chế của những kẻ bạo hành thường là “Quá nóng giận nên không kiềm chế được”; “Đã có một ngày làm việc mệt mỏi và khó chịu”; “Say quá nên không kiểm soát được lý trí”... Những lý lẽ được một số người thông cảm, vì thế mà hành vi này được lập lại một cách thường xuyên.

Thực ra, bạo hành gia đình không phải là vấn đề “thiếu kiểm soát hành vi” mà một phần nguồn gốc của nó nằm ở thái độ gia trưởng và niềm tin của những kẻ bạo hành rằng: họ là chủ gia đình nên “có quyền” áp đặt ý muốn và quyền hạn của họ lên những thành viên khác của gia đình. Niềm tin này cộng với sự “hờ hững” của hàng xóm láng giềng và sự bàng quang của những người có trách nhiệm (vì đó “là chuyện riêng của gia đình nên không có đơn khiếu kiện thì không thể can thiệp”) đã làm cho những “người chủ gia đình” này trở thành những kẻ bạo ngược!

Nạn nhân của sự bạo hành thường câm lặng vì nhiều lý do. Người phụ nữ và những người xung quanh nghĩ rằng việc chồng đánh vợ là chuyện thường tình mà không biết rằng họ được quyền hưởng sự an toàn và không ai có được cái quyền làm tổn thương thân thể hay tinh thần của họ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women, United Nations General Assembly, 1979). 

Đôi khi do ý nghĩ rằng ông chồng bạo hành của mình chỉ là một đứa trẻ yếu đuối, người phụ nữ thường lo rằng không có mình thì người bạo ngược kia sẽ chẳng biết chăm sóc bản thân. Những người khác trong dòng họ gia đình cũng hay khuyên can và gây áp lực với họ “vì con” hoặc “vì danh dự gia đình”…

Cũng có khi họ phải chấp nhận vì không thể đảm bảo được tài chính cho bản thân mình và cho các con. Nhưng thường thì do không thấy mình thực sự được bảo vệ, họ sợ rằng khiếu kiện sẽ chẳng dẫn đến đâu ngoài chuyện nguy hiểm hơn cho bản thân và các con.

Những người phụ nữ bị bạo hành thường phải gánh chịu những chấn thương nặng nề về thể chất và tinh thần, những di chứng để lại đôi khi rất nặng nề và không chữa trị được: trở thành người khuyết tật thân thể, hoặc cũng có thể trở thành kẻ bạo hành để trút tất cả sự căm hận của họ vào những đứa con ngây thơ và yếu ớt. Người phụ nữ trong những gia đình này cũng có thể bị ngộ sát hoặc quyết định tìm lấy cái chết để tự giải thoát. 

Bạo hành gia đình là vấn đề gây nhức nhối cho nhiều quốc gia nên nhiều nơi đã luật về bạo hành gia đình và có những ban chuyên trách về nạn bạo hành gia đình. Báo cáo đầu tiên của Liên Hiệp Quốc - bao gồm 8 chương dài 366 trang - về bạo hành đối với trẻ em (theo Child Rights Information Network www.crin.org/violence ) cũng kêu gọi các chính phủ dành thêm nguồn nhân lực và tài lực để nghiên cứu lại và bổ sung những điều luật về bạo hành đối với trẻ em, thực thi pháp luật và trừng phạt kẻ bạo hành, đẩy mạnh những hoạt động nâng cao nhận thức về nạn bạo hành, trang bị cho cha mẹ những kỹ năng làm cha mẹ, hỗ trợ trẻ em trong việc ngăn ngừa nạn bạo hành…

Nghiên cứu cho thấy nạn bạo hành gia đình có tác hại rất lớn đến trẻ em (Health Effects of Violence, Canada National Clearing House on Family Violence, 2003): Những đứa bé do những bà mẹ thường xuyên bị bạo hành sinh ra thường thiếu tháng, thiếu ký, dễ bị bệnh tật và chết non.

Những đứa trẻ sống trong gia đình có nạn bạo hành thường lo lắng và sợ hãi thường xuyên, mất niềm tin vào cuộc sống, phát triển những hành vi tự hủy hoại bản thân như thường xuyên tự cắt tay hay tự tử, dễ dàng trở thành nạn nhân của những kẻ miệng lưỡi ngọt ngào rồi bỏ nhà ra đi và tiêm nhiễm rượu chè, ma túy, để rồi các em nữ có thể có thai ở tuổi vị thành niên, rồi lại trở thành nạn nhân của những hành vi bạo hành khác hoặc trở thành gái mại dâm... 

Rõ ràng, chúng ta cần phải có luật về chống bạo hành, đồng thời các tổ chức liên quan và những người có trách nhiệm phải thực sự vào cuộc và phối hợp hành động khi thấy có dấu hiệu bạo hành, chứ không thể ngồi trông chờ những nạn nhân cô thế và đầy sợ hãi (thường là phụ nữ và trẻ em) phải lên tiếng, hay chứng kiến hậu quả đau lòng rồi mới bắt tay vào việc.

Một chương trình hỗ trợ tâm lý cũng hết sức cần thiết để giúp nạn nhân vựợt qua được khủng hoảng. Những kẻ bạo hành cũng là những người lệch lạc về nhận thức và hành vi nên cũng cần sự hỗ trợ để hiểu rõ hơn về luật pháp và cái giá của bạo hành đối với bản thân họ và gia đình. Đồng thời chúng ta cũng phải xây dựng cả cơ chế bảo mật thông tin cho nạn nhân và những nơi tạm lánh nạn (safety shelters) để nạn nhân an toàn trong thời gian xét xử, bởi vì chỉ khi cảm thấy được đảm bảo an toàn, nạn nhân của những vụ bạo hành mới dám tìm đến với pháp luật.

ThS. VÕ T. HOÀNG YẾN, ĐH Mở TP.HCM

Nguồn: Việt Báo

 


Từ khóa: DRD, Hoàng Yến, Phát triển cộng đồng

Tin liên quan

Go to top