VÕ THỊ HOÀNG YẾN, một cái tên được biết đến nhiều vì những chặng đường mà chị đã trải qua, những thành quả mà chị đạt được – mà không phải chỉ dành cho chị.
Chị Yến bị tật chân sau cơn sốt bại liệt năm ba tuổi. Tuổi thơ tuy không nhọc nhằn kiếm sống nhưng cũng khốn khó với sự kỳ thị của người đời dành cho người khuyết tật. Sống mãi trong sự kỳ thị ấy, có người đã mặc cảm buông xuôi, từ bỏ việc học, từ bỏ tương lai của mình để tìm đến một thế giới nhỏ hẹp nhưng an toàn với họ hơn. Còn chị, càng bị bạn bè trêu ghẹo bao nhiêu, càng nghe những câu nói thương hại kiểu như “Không biết mai mốt nó làm gì để sống!” thì chị càng tăng thêm quyết tâm học tập để phát triển tương lai.
Kết thúc cấp ba với điểm tốt nghiệp cao nhất trường cùng với 2 học sinh khác, chị thi vào Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Nhà nghèo nên má chị không xoay xở nổi tiền nong, nhưng nhờ 2 người chị lớn của chị lần lượt tốt nghiệp đại học ra trường rồi cứ người trước nuôi người sau mà chị và người chị kế mới có thể theo học được. Giống như bao sinh viên khác chị mong muốn có được một việc làm ổn định sau khi ra trường. Nhưng cũng kể từ khi ra trường, chị trải qua và cảm nhận được hết những cay đắng phũ phàng mà cuộc sống giành cho người khuyết tật. Với tấm bằng cử nhân kinh tế, chị đi gỏ cửa xin việc. Các nhà tuyển dụng không thể chê điều gì khác ngoài đôi chân khuyết tật của chị! Đó là vào năm 1990.
Mình đâu phải bất tài vô dụng? Câu hỏi cứ làm đau đớn lòng chị. Không muốn mãi là gánh nặng cho gia đình, chị bắt đầu nghĩ đến một công việc gì đó có thể nuôi sống được bản thân, và giúp tìm được câu trả lời cho câu hỏi vẫn làm chị day dứt. Chị quyết tâm học Anh Văn để có thể dạy kèm hay dịch sách kiếm sống, và tìm đọc những thông tin về các chương trình cho người khuyết tật ở các nước. Chị chọn trung tâm ngoại ngữ của ĐH Nông Lâm vì nghe nói là dạy tốt nhất thành phố lúc đó. Vấn đề là chị phải bắt đầu học từ con số không mà trung tâm lại không có lớp ban đầu như thế. Thời chị học phổ thông các trường ở vùng xa không hề có giáo viên ngoại ngữ, vì thế nên chị đã không có cơ hội học tiếng Anh. Một thiệt thòi mà các học sinh vùng sâu vùng xa phải chịu. Bây giờ phải học chung với những người đã học hết ít nhất cuốn Streamline 1, nên trong lớp chị là học sinh yếu nhất vì không biết một chút gì về ngữ pháp, từ vựng, cách phát âm,… Nhưng chị thì muốn học thật nhanh để bù lại thời gian đã mất. Chị đọc ngấu nghiến sách ngữ pháp, ráng học phát âm bằng cách tập đọc phiên âm, ráo riết nghe băng để luyện nghe mặc dù ban đầu chẳng nghe ra được chữ nào, luôn đọc và tìm cách phân tích câu,… rồi chị tự tìm được cho mình cách học hiệu quả. Chỉ sau khóa học ba tháng, chị bắt đầu khá dần, rồi trở thành một trong những học viên khá nhất lớp. Gia đình lớn chăm chút, các chị gái đều yêu thương và luôn cố gắng tạo điều kiện để cô em út kém may mắn có thể đi học với một tâm trạng thoải mái. Chị còn cám ơn mãi điều này trong đời mình.
Chỉ mới học khá dần lên, thì đến cuối năm 1995, chân chị bị yếu đi nhiều nên dễ ngã (triệu chứng hậu sốt bại liệt mà sau này chị mới biết), gia đình quyết định cho chị mổ chân. Phải nằm nhà điều trị gần hai năm và chị đã không bỏ phí thời gian này mà chị tận dụng nó để tự học Anh văn. Biến bất tiện thành thuận tiện! Chân vẫn còn bó bột, chị đi thi bằng B rồi sau đó 1 tháng bằng C tiếng Anh ở ĐH. Sư Phạm và là người có điểm pretest cao nhất ở cả 2 kỳ thi. Sau đó chị tham gia học lớp cử nhân Anh văn ở Đại học Sư phạm, và năm 1999 chị tốt nghiệp ra trường là một trong bảy sinh viên đạt điểm cao nhất khóa.
Luôn là người mê hoạt động, chị bắt đầu dạy kèm kiếm sống, và giành thời gian dạy Anh văn miễn phí cho một số bạn khuyết tật khác. Chị cũng tham gia vào một nhóm nhạc của những người khuyết tật thỉnh thoảng tổ chức những buổi đi hát phục vụ cho các thương binh nặng đang nằm bệnh viện hoặc đang ở những khu an dưỡng. Rồi cuối năm 2000, bằng sự yêu thích nhiếp ảnh và nguyện vọng giúp mọi người hiểu rõ hơn về những rào cản mà người khuyết tật hằng ngày phải đối mặt, chị cùng với 12 người bạn khuyết tật khác đi khắp nơi chụp ảnh và tổ chức một triển lãm ảnh về “cuộc sống của người khuyết tật” tại Cung Văn Hóa Lao Động. Họ vận động được thầy Phùng Hiệp dạy họ chụp ảnh cấp tốc và Quỹ Cứu trợ Nhi Đồng Anh tài trợ toàn bộ kinh phí. Tuần lễ triển lãm thu hút hơn 2000 khách đến xem. Nhiều người xúc động bày tỏ rằng cuộc sống cứ cuốn họ đi và họ đã quên rằng vẫn còn có một phận người khuyết tật vẫn đang tồn tại chung quanh họ, với những nhu cầu cũng như họ. Từ đây, chị bắt đầu nghiệm ra cách thực hiện ý tưởng bằng cách kết hợp năng lực cá nhân với các nguồn lực của cộng đồng. Cùng trong năm đó chị được một tổ chức Nhật Bản mời tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về phong trào quốc tế sống độc lập của người khuyết tật, tổ chức tại Hawaii với sự tham gia của hơn 600 người khuyết tật đến từ các châu lục. Tại hội nghị, chị đã được gặp gỡ rất nhiều lãnh đạo khuyết tật tài giỏi, có người còn khuyết tật nặng hơn chị rất nhiều. Qua nhưng trao đổi trong hội nghị, chị hiểu rõ hơn về triết lý của phong trào sống độc lập và chị tin rằng mình đã tìm được một hướng đi. Nhận thức mới đó càng nuôi dưỡng trong lòng chị một quyết tâm “làm được điều gì đó cho mình và cho những người khyết tật khác”. Những mơ ước, những kế hoạch lại thôi thúc chị vươn lên, vươn lên! Năm đó chị được Truyền hình Thanh niên chọn là một trong 3 thanh niên của chương trình truyền hình bắt đầu thiên niên kỷ, chương trình “Xông đất những người đi đốt lửa”
Giữa năm 2001, Quỹ Ford mang đến cho chị một cơ hội lớn bằng xuất học bổng du học qua chương trình IFP. Chị đã nắm bắt được cơ hội này – một cơ hội đã làm thay đổi cuộc đời chị. Chị nộp đơn dự tuyển và là một trong 18 người Việt nam năm đó được chọn. Chị là người có điểm Toefl cao nhất khóa, và là một trong 3 người đủ điểm để theo học cao học ở Hoa Kỳ. Chị chọn ngành Phát triển con người (nay là Khoa học về Hành vi) của Đại học Kansas, Hoa Kỳ, vì nơi đây có một trung tâm nghiên cứu về khuyết tật rất nổi tiếng, và chị tin rằng kiến thức về phát triển con người sẽ giúp chị tìm kiếm được điều giúp mình và giúp người phát triển. Chị nhớ lại: “Rõ ràng là cơ hội luôn hiện diện đâu đó, nhưng mình phải luôn chuẩn bị để nắm bắt nó, vì nếu không bắt kịp nó sẽ bay đi mất!”
Ở Kansas, chị được học và làm việc với nhiều giáo sư danh tiếng của ngành. Vị giáo sư hướng dẫn, Glen White, và vợ ông xem chị như con. Là một du học sinh nước ngoài duy nhất trong lớp của toàn là những người Mỹ, ban đầu chị phải rất vất vả mới theo kịp được tốc độ nói, đọc và viết với những người cùng học. Không có kiến thức cơ bản của ngành như họ nên chị còn phải đọc nhiều hơn, học nhiều hơn. Khác biệt thức ăn (chị vẫn cười bảo mình là “con nông dân” nên không chịu được bơ sửa) và tuyết lạnh mùa đông vẫn thỉnh thoảng hành hạ chân chị.
Và chị vẫn là người luôn tìm kiếm và vận dụng các nguồn lực. Sau năm học đầu tiên, hè năm 2002 đã về nước thăm gia đình với 100 chiến xe lăn xin được từ tổ chức Rotary Club International. Xe không phải dễ xin nên chị muốn nó phải đến đúng những người thật sự cần. Chị liên lạc với những anh chị trong hội chữ thập đỏ ở quê chị và những phật tử của các chùa nhờ họ tìm cho thật đúng người mà tặng. Chuyến đi còn có thêm 2 chuyên gia về phục hồi chức năng tình nguyện đi cùng để khám và chỉ dẫn cách sử dụng xe và tập luyện thêm cho những người khuyết tật. Nhìn những người nhận được xe “mừng như trúng số” mà chị cảm động, cái cảm động đã ràng buộc chị thêm với ước mơ làm thay đổi cuộc đời.
Cố gắng học tập không mệt mỏi cuối cùng đã đạt kết quả tốt đẹp. Đề tài khoa học “Giúp phát triển kỹ năng vận động và biện hộ cho sinh viên khuyết tật ở các trường đại học Mỹ” của chị được hội đồng khoa học đánh giá cao và được đích thân cố vấn các vấn đề phát triển cho người khuyết tật của Ngân hàng thế giới (WB), bà Judith E. Heumann, mời báo cáo tại trụ sở chính của WB ở Washington D.C vào mùa hè năm 2004. Judith nói với giáo sư Glen White rằng: “Thật là thú vị. Các tổ chức của nước Mỹ chúng ta vẫn thường đi các nước chỉ dẫn người ta về vận động và biện hộ, vậy mà Yến đến từ một nước nhỏ bé Việt Nam lại đi dạy lại cho sinh viên chúng ta về kỹ năng vận động và biện hộ sao cho hiệu quả!”. Giáo sư White đề nghị chị một suất học bổng để học tiếp tiến sĩ. Một chương trình phát triển Châu Mỹ Latin đặt tại Washington DC mời chị làm cố vấn cho chương trình, một công việc với nhiều chuyến đi đến các nước Mỹ Latin. Nhưng chị đã từ chối vì “Trái tim tôi ở Việt Nam!”. Để lại cơ hội làm việc cho một tổ chức lớn và một cuộc sống đầy đủ sung túc ở xứ người, chị trở về nước để bắt đầu điều mà chị vẫn hằng ấp ủ: cơ hội đổi đời không chỉ cho riêng chị mà còn cho rất nhiều người khuyết tật trên mảnh đất mà chị yêu thương.
Lịch sử cuộc đời chị bước sang một chương mới: bắt đầu cống hiến.
Từ chối những lời mời làm việc cho các tổ chức phi chính phủ quốc tế đang có chương trình tại Việt Nam và cả một số trường đại học, chị bắt đầu đưa những ý tưởng vẫn ấp ủ của mình vào một kế hoạch hoàn chỉnh: một trung tâm tập hợp thông tin, cung cấp thông tin, và xây dựng năng lực cho người khuyết tật. Đó cũng là lúc chị tự học viết dự án. Kỹ năng nghiên cứu và tìm kiếm thông tin trên mạng đã giúp chị rất nhiều trong việc tự học này. Chị mất hết hơn ba tháng trời ròng rã, vừa học, vừa viết, vừa đi làm phiên dịch miễn phí cho một số chương trình của người khuyết tật. Rồi lại mất thêm hơn ba tháng trời để đi tìm và thuyết phục các nhà tài trợ. Thật là khó tìm được một tổ chức nào đồng ý tài trợ hoàn toàn cho toàn bộ dự án, kể cả tiền thuê văn phòng và quản lý văn phòng. Nhưng rồi dự án của chị đã hấp dẫn được người phụ trách Quỹ Ford Việt Nam lúc đó, TS. Charles Bailey. Ông Bailey rất hài lòng với dự án của chị. Khi chị thú thật rằng chị tự học viết dự án, ông bảo rằng “Bây giờ cô đã có thể đi dạy viết dự án được rồi!” Lần thứ hai trong đời chị lại hàm ơn Quỹ Ford.
Nhưng chị lại gặp một khó khăn khác: theo qui định, Quỹ Ford không thể tài trợ cho cá nhân! Chị lại đi tìm, và muốn chọn một nơi mà chị có thể cống hiến nhiều hơn cho ngành công tác xã hội. Chị chọn ĐH Mở TP.HCM - cái nôi của ngành công tác xã hội Việt Nam. Dự án của chị đã thuyết phục được trưởng khoa Xã Hội Học lúc bấy giờ, và ban giám hiệu trường. Chương trình Khuyết tật và Phát triển (DRD) ra đời vào ngày 3-12-2005, ngày Quốc tế Người Khuyết tật.
Chị muốn DRD là một minh chứng cho xã hội thấy rằng người khuyết tật không phải chỉ là người luôn nhận lãnh mà còn là người biết đóng góp cho xã hội, cho việc xây dựng cộng đồng. Ai đến với DRD cũng sẽ nhận ra rằng đây là một tổ chức của người khuyết tật. Chị tập hợp được chung quanh mình những đồng nghiệp là người khuyết tật tâm huyết với việc thay đổi nhận thức xã hội và giúp người khuyết tật phát triển, mặc dù tâm huyết không có nghĩa là có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc. Và vì vậy với các đồng nghiệp này, chị phải đóng vai trò của một người đồng hành (mentor: vừa là bạn vừa là thầy): chỉ dẫn cách học, truyền đạt kiến thức, giúp phát triển kỹ năng, động viên và cả thách đố khi cần thiết. Nhiều người hỏi “Sao chị không thuê người không khuyết tật giỏi chuyên môn và nhiều kinh nghiệm hơn để đỡ cực?”, chị cười “Đây là triết lý của chương trình. Không ai cho người khuyết tật cơ hội để làm việc thì làm sao họ có được kinh nghiệm và được chứng tỏ khả năng? Thực ra, các đồng nghiệp của tôi là các chuyên gia trong lĩnh vực khuyết tật, các bạn chỉ chưa biết cách hệ thống các hiểu biết của các bạn lại một cách khoa học thôi!”
Mọi người, kể cả các đồng nghiệp của chị, lúc đầu cứ nghĩ rằng chị đang ứng dụng những gì chị học được từ cái chuyên ngành sâu của chị. Họ nghĩ đơn giản rằng chị đang ứng dụng những gì chị đã được dạy. Hoàn toàn không phải thế. Những gì cụ thể mà chị đang thực hiện ở DRD đòi hòi một sự tổng hợp của nhiều thứ khác nhau mà chị phải vừa tiếp tục học tập, nghiên cứu và vừa thực hiện. Chị biến DRD thành một tổ chức học tập (learning organization): các đồng nghiệp học từ công việc và học tập lẫn nhau. Chị cũng liên hệ với các tổ chức xã hội khác để tìm kiếm cơ hội ngâng cao năng lực cho các đồng nghiệp trẻ của mình qua những buổi hội thảo, tập huấn,…
Chị hay đùa “Mình tuổi cây cầu!” Lúc nào cũng trăn trở với những nhu cầu thiết thực của người khuyết tật nên trong đầu chị luôn tràn ngập các ý tưởng, và chị luôn cố gắng vận dụng tất cả các nguồn lực đang sẵn có hoặc tiềm ẩn trong cộng đồng để thực hiện những ý tưởng của mình vì chị tin rằng vẫn còn rất nhiều người có lòng và sẵn lòng giúp đỡ những người thiệt thòi. Vì vậy nên “Vận động sự tham gia, ít tốn kém, chất lượng, và minh bạch” là tôn chỉ của DRD.
Qua trải nghiệm của bản thân khi đi tìm dữ liệu cho nghiên cứu, rồi gặp gỡ các em sinh viên bày tỏ khó khăn của các em khi đi tìm thông tin cho các đề tài liên quan đến lĩnh vực khuyết tật, chị ấp ủ ước muốn phát triển một trang web chuyên về khuyết tật để phục vụ cho người khuyết tật, sinh viên các ngành khoa học xã hội, các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm. Trang web cũng sẽ là nơi người khuyết tật có thể tìm kiếm những thông tin về chính sách hay những chương trình xã hội mà họ là đối tượng thụ hưởng, là nơi họ có thể chia sẻ những vui buồn hay trăn trở qua một diễn đàn mở. Thế là chị đi tìm kiếm những tình nguyện viên trẻ để giúp chị. Trang web được phát triển từ một trang web sẵn có của một nhóm tình nguyện “làm chơi cho vui”. Nhưng dần dần trang web cho thấy những yếu kém kỹ thuật nên không đáp ứng được giấc mơ về một thư viện điện tử của chị, chị bắt đầu đi tìm kiếm chuyên gia. Qua bạn bè biết rằng có một chương trình tình nguyện của Úc có thể cung cấp tình nguyện viên chuyên nghiệp, chị liên lạc hỏi thông tin, rồi viết dự án xin hỗ trợ. Nhờ thế mà chị đã có được một chuyên gia đến giúp DRD trong hơn một năm để phát triển được một thư viện điện tử - trang web có tính tiếp cận đầu tiên của Việt Nam. Những người khuyết tật các dạng khác nhau cũng được mời tham gia bằng cách ho biết mong muốn của họ, dùng thử, và góp ý để trang web phục vụ tốt nhất cho dạng tật. Một công ty cũng đồng ý hỗ trợ miễn phí hosting. Chị vẫn đang tìm kiếm thêm tình nguyện viên để giúp hoàn chỉnh bộ từ khóa cũng như phiên bản ngôn ngữ ký hiệu và phiên bản tiếng Anh cho thư viện.
Tiếp xúc với các em sinh viên khuyết tật đến DRD nhờ xin việc làm thêm, chị hiểu được những khó khăn của các em. Sinh viên không khuyết tật tìm việc làm thêm còn vất vả, huống vì sinh viên khuyết tật. Mà phần lớn các em là con nhà nghèo, vượt qua được hết những rào cản để vào được giảng đường đã khó, sống xa nhà để cố gắng theo đuổi cho hết con đường học tập trong cái khó khăn của cơm áo gạo tiền còn khó hơn gấp bội. Nhưng chị không muốn các em cứ mãi mặc cảm rằng mình là người nhận lãnh. Sự giúp đỡ theo cách từ thiện: cho một cách quá dễ dàng và cho vô tội vạ đã làm “hư” rất nhiều người, vì họ sẵn sàng sử dụng cái thiệt thòi của mình để được người tội nghiệp rồi mất dần đi giá trị bản thân. Chị muốn khích lệ các em, làm cho các em có thể ngẩng cao đầu rằng mình cũng là người “cho” chứ không chỉ nhận. Vì thế mà chương trình học bổng “Người Bạn Đồng Hành” ra đời, vận động sự đóng góp của những người quan tâm cho các em những suất học bổng toàn phần để các em không phải lo lắng về cơm áo gạo tiền nhưng các em phải “đồng hành” với một trẻ khuyết tật nặng không thể đến trường. Và DRD thì “cùng đồng hành” với các em sinh viên, giúp các em phát triển các kỹ năng xã hội cũng như chuẩn bị cho công việc sau khi ra trường. Một chương trình học bổng với sự tham gia của cộng đồng, bắt đầu bằng sự đóng góp của người thân và bạn bè của chị.
Ý tưởng của chị luôn được sự ủng hộ của cộng đồng là vì chị luôn tin vào lòng tốt của con người. Dù người ta vẫn có thói quen “phong bì” cho các nhà báo khi tổ chức các sự kiện, DRD không làm như thế, vậy mà các nhà báo vẫn luôn đến và đến rất đông mỗi khi DRD gửi thư mời. Báo Lao động Xã hội đã viết rằng hội thảo của DRD là “hội thảo không có phong bì”. Và nhờ các nhà báo mà hoạt động của DRD được nhiều người biết đến. Người khuyết tật tìm đến sinh hoạt hoặc tìm kiếm cơ hội việc làm. Cha mẹ trẻ khuyết tật tìm đến nhờ tư vấn cho con. Các doanh nghiệp tìm đến ngỏ lời nhận người khuyết tật vào làm. Sinh viên tìm đến để đọc tài liệu và làm đề tài. Các tổ chức xã hội đến nhờ đóng góp ý kiến cho các chương trình liên quan đến khuyết tật của họ. Cả các chuyên gia nước ngoài cũng tìm đến tìm hiểu thông tin hoặc mời hợp tác. Những bạn trẻ của các nhóm tình nguyện cũng tìm đến nhờ góp ý cho chương trình hoặc ngỏ lời làm tình nguyện cho DRD.
Thấy các hội nhóm khuyết tật ở các tỉnh cứ lúc hợp lúc tan vì thiếu cơ hội trang bị kỹ năng làm việc nhóm, chị và đồng nghiệp của mình lại cứ đi hết nơi này đến nơi khác tập huấn kỹ năng cho họ. Chị lại nghĩ: giúp người khuyết tật phát triển những nếu xã hội chưa sẵn sàng thì cũng không có ai để cùng phối hợp. Thế là chị lại đi tìm, lại gõ cửa VSO- một tổ chức tình nguyện quốc tế- để tìm tình nguyên viên chuyên nghiệp về giúp chị phát triển giáo trình công tác xã hội với người khuyết tật. Rồi lại thấy sinh viên ngành công tác xã hội đều dễ thương nhưng phần lớn đến từ vùng sâu vùng xa nên rất yếu Anh văn, giống như chị ngày xưa, chị lại mày mò viết dự án đi tìm cách giúp các em phát triển Anh văn chuyên ngành. Rồi các tổ chức mời chị đi nói chuyện, đi “bơm lửa” cho học sinh, thanh niên, chị lại không thể chối từ “Mình muốn làm điều này lâu rồi mà không làm được. Bây giờ chỉ có giành chút thời giờ tham gia, làm sao có thể chối từ!”
Cũng như nhiều NKT khác, có những lúc chị kiệt sức do thể chất yếu hơn mức bình thường, nhưng niềm đam mê và ý nghĩa công việc khiến chị không cho phép mình nghỉ ngơi. Hàng tuần, chị vẫn đều đặn lên đứng lớp cho sinh viên đại học Mở về chuyên ngành hành vi con người. Và cả những buổi họp báo, nói chuyện chuyên đề, hội nghị khoa học trong và ngoài nước… Có những lúc cân nhắc vì sức khoẻ và thời gian hạn chế chị bắt đầu “tập nói không” trước những lời mời, nhưng rồi nghĩ đến lợi ích cho cộng đồng, đến sự phát triển của DRD chị lại không thể bỏ lỡ cơ hội !
Nói đến những cơ hội phát huy kỹ năng cho NKT, đến việc khơi gợi tiềm năng cộng đồng, đến những thay đổi tích cực cho xã hội,… niềm tin làm ánh mắt chị long lanh. Đôi mắt sáng ngời, nụ cười trong sáng, và nét mặt quả quyết của chị luôn lôi cuốn được cộng sự và cộng đồng cùng tham gia với chị vào niềm vui cống hiến.
Lịch làm việc dày đặc, nhưng đôi khi tính nghệ sĩ trong chị lại trỗi dậy, chị ôm đàn say sưa hát cùng bạn bè, người thân, với những người bạn mới “… Và sao không là gió là mây để thấy trời bao la. Sao không là phù sa dâng mỡ màu cho hoa…”
TP.HCM, 07-4-2009
Nguyễn Ngọc - Hải Ninh