Ngày 09/06/2011 vừa qua, buổi thảo luận chuyên đề về “Nhận thức về khuyết tật” đã được “Nhóm hoạt động vì người khuyết tật tại Tp.HCM” tổ chức tại Hội quán Đời Rất Đẹp (Disability Resource and Capacity Development -DRD), số 91/6N đường Hòa Hưng, phường 12, quận 10, Tp.HCM. Buổi thảo luận đã được đông đảo tham dự viên công tác trong lĩnh vực giáo dục và khuyết tật tham gia. Báo cáo viên là chị Võ Thị Hoàng Yến. Chị Yến đã nêu ba mô hình trợ giúp người khuyết tật từ xưa đến nay. Xưa nhất là mô hình từ thiện. Ngày xưa, nhiều người có vẻ xem thường người khuyết tật, bên Việt Nam ta thường gọi là người tàn tật, còn theo tiếng Anh, người ta gọi là: “handicap”, là do từ “hand” (bàn tay) và từ “cap” (cái mũ/ nón) ghép với nhau. Điều này làm ta liên tưởng đến người ăn mày với bàn tay ngửa nón ra xin tiền. Ngược lại với sự coi thường, một số người lại bảo bọc người khuyết tật một cách quá đáng. Khi nhìn thấy một người khuyết tật đi học, những người khác sẽ nói: “Chà, tội nghiệp quá!” hoặc “Đã khuyết tật như vầy, đi học làm chi? Không biết học rồi có làm được gì không?” và thế là người ta tìm cách che chở, bảo bọc người khuyết tật để khỏi phải tự đi học một cách nặng nhọc, khó khăn.
Hình minh họa - Tải từ Internet
Sau đó, do sự tiến bộ chung của y học, người ta trợ giúp người khuyết tật theo mô hình y tế, chẳng hạn như chế tạo ra các dụng cụ trợ giúp người khuyết tật: nẹp chân, gậy dò đường, … hoặc phục hồi chức năng cho người khuyết tật.
Các trường đại học thường nói rằng họ không cấm người khuyết tật đi học, nhưng nếu muốn thì người khuyết tật phải tự thu xếp để đến trường. Do đi lại khó khăn, nên người khuyết tật cũng là người ít học, vì thế mà khi ra thị trường lao động, họ thua sút người khác, họ phải chịu nhận mức lương thấp và sống trong nghèo khó. Hai mô hình nêu trên được gọi là các mô hình truyền thống. Mãi đến năm 1972, ở vùng Berkely, California, Mỹ có một Trung tâm Sống Độc lập (Center for Independent Living- CIL) được thành lập, noi gương Martin Luther King Jr. trong phong trào người da đen giành độc lập, trung tâm này được coi như một trung tâm đầu tiên trên thế giới do người khuyết tật điều hành và phục vụ dành cho người khuyết tật. Rồi sau nhiều năm đấu tranh lâu dài, từ 1972 đến 2007 (35 năm), Công ước Quốc tế về Người khuyết tật đã ra đời.
Ngày nay ta có một mô hình tiếp cận khác đối với người khuyết tật, đó là mô hình xã hội/ social model. Chị Yến nêu một ví dụ dễ hiểu: Ngay tại đây, vào lúc này có một số tham dự viên đeo kính. Đó là do mắt họ có một số khiếm khuyết. Nếu không có kính, họ sẽ nhìn không rõ, tức là họ có khuyết tật mắt. Một người khiếm thị nếu không đọc được sách thì họ không thể đi làm được và từ đó họ trở thành người tàn tật. Vì vậy, người khuyết tật trở thành tàn tật không phải là do khuyết tật của họ mà là do môi trường xã hội. Ta thấy có sự khác nhau giữa các mô hình truyền thống và mô hình xã hội. Mô hình truyền thống đổ lỗi cho sự khiếm khuyết của người khuyết tật. Người khuyết tật phải nỗ lực nhiều hơn để vượt qua khiếm khuyết đó của mình, để cũng học hành và làm việc như những người khác. Người khuyết tật thuộc về nhóm thiểu số nên phải cố gắng để theo kịp với đa số.
Trong khi mô hình xã hội đã thấy những lỗi đó là ở xã hội mà ra, môi trường tạo ra sự tàn tật (disabling society). Từ đó mà người ta nghĩ đến việc phải thay đổi môi trường, tạo một môi trường thân thiện hơn đối với người khuyết tật (disability friendly environment), chẳng hạn như làm lối đi dốc cho người khuyết tật ngồi xe lăn lên được các tòa nhà cao tầng… Làm được những điều này chính là ta đã phá vỡ được những rào cản xã hội, tạo ra một xã hội dễ tiếp cận (accessible society), tạo những cơ hội bình đẳng, đồng đều cho mọi người. Lúc đó, người khuyết tật sẽ ra đường nhiều hơn, đi đâu ta cũng thấy họ, ta sẽ không còn nhìn họ một cách tò mò hoặc sợ hãi nữa, mà ta thấy họ bình thường. Thế là từ việc xóa bỏ các rào cản hữu hình (lối đi khó khăn cho người khuyết tật), ta sẽ xóa bỏ được luôn những rào cản vô hình.
Trong thực tế, việc thực hiện có vẻ khó khăn hơn. Chẳng hạn, Bộ Giáo dục miễn thi cho người khuyết tật, nhưng sự ưu ái này lại vô tình trở nên một sự phân biệt đối xử, thể hiện sự thiếu tin tưởng vào năng lực của người khuyết tật. Lẽ ra ta nên cho người khuyết tật vẫn đi thi nhưng các thí sinh khuyết tật sẽ được thêm giờ làm bài, ví dụ như thí sinh khiếm thị cần nhiều thời gian để viết chữ nổi (công bằng cơ hội). Lại nói về việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, khi lên một kế hoạch xây dựng, người ta thường nhớ để đưa vào các yếu tố phù hợp với “phong thủy”, nhưng người ta lại thường bỏ quên những yếu tố để trợ giúp cho người khuyết tật dễ tiếp cận hơn vì người ta cho rằng để tránh sự tốn kém do số người khuyết tật không nhiều, ví dụ trong 1.000 sinh viên ở một trường đại học, chỉ có 1 sinh viên khuyết tật. Tuy nhiên, có nhiều nghiên cứu cho thấy nếu ngay lúc ta lên kế hoạch xây dựng mà đã đưa vào các yếu tố trợ giúp người khuyết tật, thì ta chỉ tốn thêm từ 0% đến 3% mà thôi. Trong khi đó, nếu sau khi xây dựng, ta mới sửa chữa lại thì sẽ tốn đến 12% chi phí. Nghĩ xa hơn nữa, nếu một người khuyết tật sau khi tốt nghiệp, họ sẽ đi làm, sẽ đóng thuế cho nhà nước và tạo ra nhiều giá trị khác cho xã hội. Ngược lại, nếu không tạo điều kiện cho người khuyết tật tự đi học và đi làm được, nhà nước phải tốn chi phí trợ cấp cho họ và xã hội đã bỏ rơi mất rất nhiều nhân tài, nhiều nhà bác học tiềm năng.
Nhật Huy
Nguồn:SDRC.Com